TỰ TRUYỆN TÌNH YÊU - GIA ĐÌNH - SỰ NGHIỆP (Phần II)
TS Nguyễn Thị Sơn

  • www.doanhtri.net
  • 19-02-2019
  • 1805 lượt xem

 PHẦN II: TỪ CHƯƠNG 8 ĐẾN CHƯƠNG 11

CHƯƠNG 8 

SỰ CỐ LỚN TRONG CUỘC ĐỜI

Sự nghiệp đang phát triển, Legamex là một thương hiệu mạnh Việt Nam ở thời kỳ đầu thập niên 1990s. Tháng 8 năm 1991 công ty chuyển cấp chủ quản từ quận 10 lên thuộc Sở Công nghiệpTP. HCM. Đến năm 1993, nhà nước có chính sách đổi mới doanh nghiệp, cụ thể là chương trình “Cổ phần hóa” doanh nghiệp và chọn Legamex là thí điểm đầu tiên.

Tôi hăng hái là người đi tiên phong vì những lý do:

1) MIB đang có chủ trương bán nợ, đây là cơ hội bằng vàng để chỉ trả nợ với giá 40% là hết nợ, cổ phần hóa để thu hút vốn mua lại nợ;

2) Ngành may đang có tiềm năng phát triển, cổ phần hóa để có thêm vốn tự có đầu tư mở rộng nhà máy, phát triển sản xuất kinh doanh;

3) Chấp hành và hưởng ứng chính sách đổi mới của nhà nước.

Chương trình cổ phần hóa công ty Legamex được chính phủ, các bộ ngành trung ương ủng hộ (chủ trì thí điểm cổ phần hóa do Phó Thủ tướng Trần Đức Lương trực tiếp chỉ đạo), lãnh đạo TP HCM cũng ủng hộ (văn bản số 5908/UB-CN ngày 05/12/1992 của Chủ tịch UBND TPHCM Trương Tấn Sang gửi Văn phòng Chính phủ về việc xin làm thí điểm cổ phần hóa toàn bộ công ty Legamex).

Tập đoàn chứng khóan Credit Lyonnairs Securities và Quỹ Việt Nam Fund cũng đến giúp Legamex làm nghiên cứu khả thi về cổ phần hóa theo các tiêu chuẩn quốc tế.

Chương trình cổ phần hóa đang tiến hành thuận lợi, nhưng không hiểu sao có hai anh chị nhà báo MA, NT viết bài đưa tin thiếu tính cách xây dựng, chủ yếu công kích cá nhân tôi và gây mâu thuẫn giữa tôi và một số vị lãnh đạo quận 10. Sau đó biến sự việc từ mâu thuẫn cá nhân sang mâu thuẫn quan điểm sở hữu. Có ý kiến cho rằng tôi muốn biến tài sản Xã hội Chủ nghĩa thành tài sản tư nhân. Thế là tiến hành thanh tra. Kết luận của Ủy ban Thanh tra TP HCM ký ngày 07/04/1994, được gửi gấp đến công ty Legamex ngày 8/04/1994, thì chỉ 3 ngày sau, ngày 11/04/1994 UBND thành phố ra quyết định tạm đình chỉ toàn bộ ban giám đốc công ty Legamex và cử ban giám đốc mới về thay thế. Kiến nghị trong báo cáo kết luận của Ủy ban Thanh tra không có khoản nào yêu cầu chuyển hồ sơ sự việc sang cơ quan điều tra, nhưng không hiểu tại sao cơ quan điều tra vào cuộc. Rồi khởi tố vụ án, khởi tố bị can với tội danh “cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” bất kể các nguyên tắc về thủ tục tố tụng; bất kể văn bản của Văn phòng Chính phủ ngày 19/04/1994, Phó Thủ tướng Phan Văn Khải có ý kiến: “giao Thanh tra Nhà nước chủ trì cùng với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Uỷ ban Nhân dân TPHCM, xem xét kỹ những căn cứ kết luận sai phạm, cái gì thuộc về sai phạm của Ban Giám đốc Công ty Legamex, cái gì thuộc quyết định của cấp trên mà công ty phải làm, cái gì thuộc cơ chế chung của thời điểm đó để bảo đảm việc xử lý sai phạm của cán bộ khách quan, đúng pháp luật”.

Tôi hỏi cán bộ điều tra: “trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế cụ thể là quy định nào về quản lý kinh tế? gây hậu quả nghiêm trọng là nghiêm trọng cỡ nào?” Một vụ án về quản lý kinh tế mà tài sản công ty không hề bị thất thoát, bị can không có dấu hiệu lừa đảo hay có ý bỏ trốn mà vẫn tiến hành bắt giam? Chẳng ai trả lời. Đó là ngày 10/06/1994.

Ở trại tạm giam, mấy tháng liền tôi chẳng nhận được tin tức gì của gia đình. Khóc mãi cũng hết nước mắt, trong phòng tôi ở có 40 chị đủ độ tuổi, đủ thành phần, mỗi người một manh chiếu 60 phân, buổi sáng xếp hàng tranh nhau chỗ rửa mặt, chỗ làm vệ sinh. Mỗi người mỗi sự việc, mỗi hoàn cảnh, ai cũng lo lắng không biết số phận mình ra sao. Có chị lo buồn chuyện nhà cửa, con cái không ai chăm sóc, rồi lo chuyện chồng ở nhà có chung thủy không hay lại có người khác, thế là tiếng rên rỉ, tiếng than khóc, thậm chí tiếng la thét như điên như dại.

Mặc dù am hiểu luật pháp, tôi biết tôi không có tội nhưng sự việc diễn biến đối với tôi cứ như chuyện xảy ra ở nơi nào đó chứ không phải ở TP HCM, trung tâm kinh tế của cả nước. Điều này làm tôi hoang mang liệu có công lý thật sự không? Những lúc lo buồn trông ngóng tin nhà, tôi thoáng nghĩ giá như mình có một người chồng, chắc đã có người chăm lo cho việc của mình. Các con dù đã khôn lớn nhưng việc này vượt quá khả năng của các con, không biết anh chị em chúng có bảo bọc nuôi nhau được không vì có bao nhiêu tiền tôi đã góp mua cổ phần công ty hết rồi.

Trước đây tôi học luật để biết luật pháp mà ứng dụng trong kinh doanh, bây giờ tôi nghiên cứu luật để tự cứu mình và giúp đỡ mọi người nên kiến thức luật pháp của tôi trở lên sâu sắc hơn. Ý chí trở nên mạnh mẽ, tôi khuyên mọi người không nên khóc nữa, không nên nói năng bừa bãi nữa, phải học tập để khi về còn làm việc có ích cho gia đình. Thấy tôi ăn nói chững chạc, cán bộ trại giam đề nghị tôi làm “trưởng buồng”. Tôi đề nghị cán bộ cho phép mua báo Saigon Times, tổ chức cho mọi người đọc báo và học tiếng Anh, cho phép mượn kim để các chị học thêu rua. Nhiều chiếc áo gối thêu rua đẹp đã được các chị chuyển về tặng gia đình mỗi lần được thăm nuôi. Thỉnh thoảng trại giam cũng khám xét các buồng giam. Các chị thường hay dấu các thỏi son, kem phấn để mỗi lần thăm nuôi ra gặp gia đình trang điểm cho tươi tắn nhưng cũng bị tịch thu. Tôi nói với cán bộ trại giam, tại sao phải tịch thu những việc không đáng như thế. Các chị em này còn trong thời kỳ tạm giam để điều tra sự việc, họ chưa là người có tội khi chưa có tuyên án của tòa án. Việc bắt họ mặc áo tù nhân ra gặp người nhà cũng là không đúng, trang điểm một chút cho khuôn mặt đỡ xanh sao cũng chỉ là tính cách rất phụ nữ thì có gì phải cấm. Nhưng cán bộ bảo đó là quy định của trại giam.

TÌNH YÊU - GIA ĐÌNH - SỰ NGHIỆP
CHƯƠNG 9
LỜI XIN LỖI MUỘN MÀNG

Ở trại giam, có những việc xảy ra không thể lý giải hoặc phân tích bằng khoa học biện chứng, nhưng thật sự có những sự việc chính tôi đã gặp vì thế không thể nói là không tin. Suốt 9 tháng không có tin tức của gia đình, sức khỏe tôi càng ngày càng kém. Ngồi bó gối nhiều ngày không vận động, tôi bị bệnh thấp khớp nặng nhiều đêm đầu gối nhức đỏ và xưng như quả bưởi. Mỗi chủ nhật nhìn mọi người ra gặp mặt gia đình, tôi ngồi im lặng đọc sách để quên nỗi buồn. Tôi nhớ hôm ấy là chiều thứ bảy trong lúc tôi ngồi đọc sách có một con thạch sùng (thằn lằn) rơi từ trần nhà xuống thẳng cuốn sách tôi đang đọc. Tôi rất sợ thạch sùng nên hoảng hốt tung cuốn sách ra nhưng mọi người lại reo lên và bảo tôi sắp có tin tốt lành, quả thật sáng hôm sau tôi được gọi ra gặp người nhà. Các con tôi có mặt đông đủ, tôi ôm các con khóc, các con tôi cũng khóc vì thương mẹ xanh xao. Hôm ấy về lại buồng giam, tôi bày các thức ăn con tôi mua thăm tôi để cúng thánh thần, nhang được thay bằng ba điếu thuốc lá. Tôi khấn nếu tôi được về tôi sẽ xuống tóc đi tu, ba điếu thuốc cháy hết mà tàn vẫn thẳng, mọi người bảo thần linh đã chứng giám lời khấn của tôi.

Tôi nhớ rất rõ cái đêm trước khi tôi được thả cũng là thứ bảy, mọi người rủ nhau đi ngủ sớm để ngày mai gặp thân nhân. Nhưng không hiểu sao đêm đó tôi thức trắng không sao ngủ được, tiếng thạch sùng rúc lên từng hồi. Hôm sau mọi người ra gặp gỡ người nhà, tôi chờ đợi đến mỏi mòn cũng không thấy gọi tên, 4 giờ chiều là hết giờ thăm nuôi, mọi người đã về buồng, tôi thất vọng đến thẫn thờ ngồi thừ người chẳng biết làm gì. Khoảng 5 giờ cánh cửa buồng giam xịch mở, mọi người reo lên chị Sơn được về, tôi nghe mà như người bị mộng du, phải đến mấy phút sau mới thật sự hiểu là mình đã được thả. Sau này khi cuộc sống của tôi đã ổn định thỉnh thoảng tôi vẫn nghe tiếng rúc của thạch sùng và y rằng hôm sau nhà có khách, trước đây tôi rất sợ thạch sùng, còn bây giờ tôi dặn các con tôi và người giúp việc đừng xua đuổi nó.

Ngày tôi được thả là ngày 6 tháng 4 năm 1995. Tôi về nhà mong chờ lãnh đạo xem xét bố trí lại công tác. Mọi người khuyên tôi xin về làm tư nhân, nhưng tôi bảo tôi đã từng là doanh nghiệp tư nhân, nhà nước tin cậy và tuyển dụng tôi để trở thành cán bộ viên chức nhà nước, tôi được bổ nhiệm có bậc ngạch của nhà nước, đấy là danh dự của tôi, và cũng là trách nhiệm của nhà nước theo quy định của luật pháp. Hơn nữa tôi muốn tiếp tục được khẳng định mình, muốn chứng minh rằng cán bộ nhà nước vẫn còn những người thành công bằng sự trung thực và bằng chính khả năng thật sự của mình.

Nhưng sự việc chẳng hiểu tại sao cứ im lặng suốt hai năm trời một cách đáng sợ. Tôi nhớ lời khấn trong trại giam nên xuống tóc, các sư thầy bảo tôi có căn tu nhưng chưa phải lúc vì thế cho tôi gọt đầu nhưng quy y tại gia. Trong thời gian này tôi tham gia tư vấn luật pháp cho doanh nghiệp tại Trung tâm thông tin tư vấn pháp luật thuộc Hội Luật gia Việt Nam. Những lúc ra đường tôi bịt khăn, lúc đầu cũng đội tóc giả nhưng nóng quá tôi để đầu trần đi làm việc.

Trước đây, khi hai nhà báo MA và NT viết bài nói không đúng về tôi thì hầu như các báo khác tại TP.HCM chỉ đưa tin diễn biến sự việc chứ không bình luận. Khi mọi việc rõ ràng, nhiều báo đã viết bài bảo vệ tôi kể cả báo Lao động trước đây đăng những bài của MA, NT thì bây giờ cũng có bài viết tường trình lại sự việc của nhà báo Trần Quang. Báo Doanh nhân Sài Gòn sau này cũng có bài viết của nhà báo Kim Phi nói về sự phấn đấu vực dậy của tôi sau những sự cố. Một hôm Tạp chí Người Làm Báo thuộc Trung ương Hội Nhà Báo VN tổ chức Hội thảo “Báo chí và doanh nghiệp trong sự nghiệp đổi mới” có mời tôi dự. Tôi phát biểu tham luận xong thì có một nữ doanh nhân phát biểu. Chị nói rằng trước đây chị đã từng là nhà báo, từng viết bài gay gắt với các doanh nghiệp, xem họ đồng nghĩa với bóc lột, với gian lận thương mại. Bây giờ chị là doanh nhân, đối mặt hàng ngày với những khó khăn, với những sự quấy nhiễu không tên của các cán bộ ngành, chị mới thông cảm cho doanh nghiệp. Lúc nói chuyện với tôi,chị bảo chị chính là nhà báo NT, ngày ấy chỉ vì chị còn quá trẻ, chị không thích kiểu làm phách của tôi nên cố ý viết nặng nề không ngờ sự việc diễn biến quá đáng với tôi như thế. Chị bảo: “tôi đã viết nhiều bài xin lỗi doanh nhân trên báo không biết chị Sơn có đọc và có biết không”. Bất ngờ quá, tôi bắt tay chị và cùng chị ngồi ăn cơm do hội nghị chiêu đãi. Cùng dự hôm ấy có một anh nguyên là phó Tổng biên tập báo Sàigon Giải phóng, khi nghe vậy anh lắc đầu và bảo: “làm báo mà chỉ vì không thích người ta mà viết quá như thế thì thiếu cái tâm của nhà báo, đúng là ngòi bút có thể xây dựng một nhân vật điển hình, ngòi bút cũng có thể giết chết một đời người”.

Lời xin lỗi muộn màng, nhưng muộn còn hơn không. Chuyện đã lỡ rồi có trách móc thì cũng chẳng giải quyết được điều gì. Dù sao tôi cũng trân trọng với lời xin lỗi đó vì không phải ai cũng có thể nhận ra lỗi của mình và dũng cảm đứng ra xin lỗi công khai như chị. 

TÌNH YÊU - GIA ĐÌNH - SỰ NGHIỆP
CHƯƠNG 10
CHÂN LÝ VÀ CÔNG LÝ

Tháng 8 năm 1996, Nhà nghiên cứu, Nhà báo Trần Bạch Đằng đã gửi thư cho lãnh đạo Thành phố HCM nói về quan điểm của ông về sự việc của Legamex (tôi có đến xin phép bác Trần Bạch Đằng cho phép tôi được đưa nguyên văn nội dung thư vào tự truyện của tôi và được bác cho phép). Nội dung thư như sau:

“Kính gửi: Đ/c Tư Sang Bí thư Thành ủy TPHCM, Đ/c Phạm Chánh Trực Chủ tịch Hội đồng Nhân dân TPHCM, Đ/c Võ Viết Thanh Chủ tịch Ủy ban Nhân dân TPHCM, Đ/c Đặng Thế Hồng Viện trưởng Viện Kiểm sát TPHCM

Vừa rồi tôi được đọc bản kết luận và đề nghị xử lý vụ án Legamex của Công an TPHCM đồng thời theo dõi dư luận các báo cũng như nội dung khóa họp của Hội đồng Nhân dân Thành phố có liên quan đến vụ này.

Mấy năm trước, tôi rất mừng cho Quận 10 và các cháu ở Legamex vì đã bươn chải làm ăn có kết quả, trong hoàn cảnh chung của lúc đó. Nhưng sau đó lại được tin Ban lãnh đạo của công ty bị khởi tố. Tôi quan tâm theo dõi vụ án từ đó đến nay.

1. Tôi rất vui và mừng cho các cháu không sa vào địa ngục của quốc nạn tham ô, nhũng lạm.

2. Tôi đọc kỹ 4 tội danh của Công an Thành phố buộc cho các cháu, tôi nghĩ đó chỉ là những sơ suất trong công tác và với động cơ bao trùm là muốn làm tốt công việc. Trong hoàn cảnh lúc đó, cả nước chứ không phải chỉ Tổng công ty Legamex phải xoay sở tự cứu. 

Ngay Quận ủy và Ủy ban Nhân dân quận 10 khi chủ trương cho Legamex hỗ trợ vốn cho các cơ sở kinh tế của Quận trái với chức năng của Legamex cũng trong hoàn cảnh đó. Trong khi đó, công bằng mà nói, các văn bản pháp quy có cái chưa có hoặc có thì không phù hợp với tình hình.

Hoặc là ngồi chịu chết, hoặc là “bung ra” tìm con đường sống - đó là tâm trạng của các cấp, các cơ sở, cơ quan từ phường, xã đến trung ương trong đó có Legamex. Nếu chỉ dựa vào lời văn của văn bản pháp quy mà không xem trọng tinh thần của pháp quy vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể lúc đó thì không chỉ Legamex mà còn có vô số những cơ quan, cơ sở kinh doanh của nhà nước “cố tình làm trái gây hậu quả nghiêm trọng”.

Bất cứ người lãnh đạo nào khi ra quyết sách đều là “cố tình” cả và trừ những người có động cơ xấu, thì ai cũng tin tưởng quyết sách của mình là đúng và tin tưởng ở sự thành công. Nhưng con người không phải là ông thánh chỉ có đúng mà không có sai, trong chiến đấu chỉ có thắng mà không có thua. Sử dụng cán bộ mà đòi hỏi họ phải tuyệt đối đúng trong mọi quyết sách và phải trăm trận trăm thắng thì quả là không thực tế. Và sẽ là tệ hại hơn nếu trăm thắng là không đáng kể, một sai lầm, một sai sót là quá đáng kể và phải trừng trị. Tôi e rằng chúng ta sẽ không có cán bộ tốt nào dám làm việc với chúng ta.

3. Tôi đề nghị các đồng chí xem xét giải tỏa cho các cháu Legamex, cái nào do các cháu sơ suất trong kinh doanh thì cùng rút kinh nghiệm với các cháu, cái nào các cháu phạm sai lầm thì nghiêm khắc kiểm điểm thậm chí nếu cần thì kỷ luật để các cháu từ đó lớn lên và tiếp tục cống hiến.

Về vật chất cũng phải sòng phẳng, công bằng, khoản nào các cháu phải bồi thường, khoản nào trả lại cho các cháu hoặc trả lại hết cho các cháu. Tôi nghĩ khó mà thuyết phục được nếu khi các cháu Legamex đóng góp nghĩa vụ cho ngân sách lúc thành công và lại phải bồi thường khi thất bại.

4. Tôi cũng đề nghị các đồng chí xem xét tuyên bố vô tội đối với anh bộ đội phục viên làm hợp đồng trang trí nội thất cho Legamex. Là người lao động tự do, anh ta được hưởng theo đúng thỏa thuận đã được hai bên cam kết. Không thể quy tội cho anh ta là lấy giá cao hơn giá quy định của nhà nước trong khi anh ta mua vật tư và sức lao động theo giá thị trường. 

Anh ta chỉ có tội nếu móc ngoặc với Ban lãnh đạo Legamex nâng giá để chia nhau. Công an Thành phố đã loại trừ việc đó. Vì vậy, để bảo vệ sự công minh, tôi nghĩ cần hoàn trả cho anh ta số tiền chính đáng mà anh ta được hưởng hay đúng ra là của anh ta.

Hết sức mong các đồng chí xem xét. Ước vọng của tôi là làm sao chúng ta sớm có một xã hội công minh, chúng ta có một đội ngũ cán bộ năng nổ, có chí, có tài và trong sạch, chúng ta là chỗ dựa đáng tin cậy cho các cháu khi thành công cũng như khi thất bại, nguồn động viên quý báu cho các cháu khi phạm phải sai lầm, khi vấp ngã để các cháu vươn lên.” (đã ký) Trần Bạch Đằng.

Mãi đến ngày 19 tháng 1 năm 1998 tôi nhận được Quyết định “Đình chỉ điều tra đối với bị can”. Tại khoản 4 ghi: yêu cầu cơ quan chủ quản hoặc UBND địa phương phục hồi các quyền lợi hợp pháp cho bị can đã bị tạm đình chỉ trong thời gian khởi tố, đồng thời kiểm điểm xử lý hành chánh một cách nghiêm khắc.

Tháng 10 năm 1998 tôi được chuyển biên chế về Phòng Thương Mại & Công Nghiệp Việt Nam (VCCI).

Tiền mua cổ phần của gia đình tôi được trả lại bằng giá trị VNĐ cộng tiền lãi theo lãi suất tiền gửi không thời hạn tại ngân hàng. Mặc dù so với giá trị thời điểm mua và thời điểm hoàn trả lại có bị thiệt thòi do tỉ suất giữa US Dollar và VN Đồng thay đổi. Nhưng tôi động viên gia đình tôi chấp nhận vì đồng tiền bị mất đi, hoặc bị thiệt thòi cũng giống như kinh doanh gặp rủi ro. Bằng cố gắng, bằng nỗ lực, người có thể làm ra của. Còn danh dự con người mới là quan trọng. Việc được hoàn lại tiền mua cổ phần Legamex đồng nghĩa với sự được hoàn lại danh dự mà gia đình tôi đã bị tước mất trước đó.

Sau 11 năm kể từ ngày tôi gặp sự cố. Nhân dịp cuối năm Bính Tuất (2006) chuẩn bị đón năm mới, tôi đến thăm và chúc tết một số anh chị mà trước đây có quan tâm đến sự việc của tôi. Khi tôi đề cập nguyện vọng viết tự truyện của tôi, tôi đã được các anh chị cho những nhận xét và góp ý rất chân tình đối với tôi:

Chị HoàngThị Khánh, nguyên chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng TPHCM, chị nhắc lại chuyện cổ phần hóa Legamex và cho rằng ngày ấy các thông tin về chủ trương cổ phần hóa còn quá mới và sự nhìn nhận đánh giá về công ty Legamex cũng có những ý kiến khác nhau. Vì thế khi anh Võ Ngọc Bé về tiếp tục điều hành công ty Legamex một cách thuận lợi chứ không phải lo lắng giải quyết hậu quả như những đơn vị có sự cố khác nên mọi người dần dần đã hiểu rõ hơn về sự việc của Legamex. Chị kể lại rằng lúc ấy với tư cách Chủ tịch Liên đoàn Lao động TP. HCM, chị cũng quan tâm về đời sống cán bộ công nhân viên của Legamex, sợ rằng sẽ bị xáo trộn khi thay đổi lãnh đạo công ty. Chị được anh Võ Ngọc Bé cho biết “tôi có báo cáo với Thành ủy và trả lời phỏng vấn trên Đài phát thanh: sự việc của chị Sơn như thế nào có cơ quan điều tra làm rõ. Riêng việc nhận bàn giao Legamex, tôi khẳng định những vấn đề về tài chính của công ty không có gì khó khăn, chị Sơn đã có mối quan hệ rất tốt với khách hàng, khách hàng là những công ty có tên tuổi, có uy tín và chị cũng đã xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý giỏi và lực lượng công nhân viên làm việc rất chuyên nghiệp lành nghề. Tôi về nhận bàn giao thuận lợi, không thay đổi hay xáo trộn về nhân sự nên khách hàng tiếp tục thực hiện hợp đồng, doanh số công ty không bị sút giảm nên thu nhập của cán bộ công nhân viên công ty vẫn ổn định”. Chị Khánh đánh giá cao về ý kiến phát biểu của anh Bé (qua câu chuyện này, tôi xin cám ơn đồng nghiệp của tôi - anh Võ Ngọc Bé, người Tổng giám đốc thứ hai của công ty Legamex).

Anh Đinh Phong, nguyên Phó giám đốc Đài truyền hình TP HCM, anh và nhà báo Thép Mới là những người ủng hộ chính sách đổi mới của Nhà nước. Nhà báo Thép Mới đã có bài viết “Gió đã hây hây thổi” vào năm 1988, trong đó có nhắc đến một số sự việc đáng ghi nhận trong tiến trình “đổi mới” ở các đơn vị kinh doanh. Còn anh Đinh Phong là người gắn bó với công việc đổi mới ở công ty Lương Thực, Thành Công, Nhà máy thuốc lá, sân bay Tân Sơn Nhất... cũng là người cùng phóng viên xuống Legamex tuyên truyền sự đổi mới của Legamex và ủng hộ chương trình “cổ phần hóa”. Anh nói về trường hợp của tôi và cổ phần hóa Legamex cần lưu ý mấy vấn đề: “Dân gian có câu “ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau”. Lội xuống nước không có người đi trước và không biết trước chỗ nào sâu, chỗ nào cạn, chỗ nào là cát, là bùn lầy, chỗ nào là đá ghềnh nguy hiểm. Cô là phụ nữ mà dám “lội” trước cả nam giới, Legamex của Thành phố mà dám nhận là đơn vị làm thí điểm cổ phần hóa của Trung ương. Vậy thì “lội nước” mà dám nhận đi trước thì phải chấp nhận có sự may rủi. Hơn nữa chủ trương cổ phần hóa lúc ấy còn quá mới, các quy định hướng dẫn thực hiện cũng chưa đày đủ. Bây giờ mọi việc đã rõ, hơn mười năm qua chương trình cổ phần hóa và chính sách đổi mới của Nhà nước đã có những thành tựu đáng kể. Cá nhân cô Sơn sau những sự cố nặng nề, hoàn cảnh khó khăn như thế mà vẫn phấn đấu vươn lên; trong nhiệm vụ mới cũng đạt được những thành tích tốt. Tôi nghĩ nhà nước cũng nên đúc kết rút kinh nghiệm về chương trình cổ phần hóa và nên có ý kiến chính thức đánh giá những mặt tốt, mặt tích cực của cô Sơn trong việc đi trước chương trình thí điểm cổ phần hóa của Nhà nước”

TÌNH YÊU - GIA ĐÌNH - SỰ NGHIỆP
CHƯƠNG 11
TIẾN VI QUAN THOÁI VI SƯ

Đó là câu nói đùa của Bộ trưởng Trần Xuân Giá khi gặp tôi ở Hội nghị Thủ tướng gặp doanh nghiệp hàng năm tổ chức ở dinh Thống Nhất. Chủ tịch Phòng Thương Mại Đoàn Duy Thành thì lại nói “tiên vi quan, hậu vi sư”. Một số anh chị bạn đồng nghiệp của tôi, từ tổng giám đốc doanh nghiệp nhà nước lên làm Bộ trưởng, Thứ trưởng ở các Bộ, vậy là tiến vi quan. Còn tôi trước đây tôi là cán bộ viên chức nhà nước, tổng giám đốc doanh nghiệp nhà nước, còn bây giờ là Hiệu trưởng Trường Cán bộ Quản lý Doanh nghiệp (CBAM) thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), đào tạo doanh nhân. Tôi không biết là tôi “tiến” hay “thoái”, nhưng từ ngày đi giảng dạy, gặp gỡ học viên là các doanh nghiệp tôi cảm thấy rất vui với công việc của mình.

Ở lĩnh vực kinh doanh, nếu bạn không giỏi, không cạnh tranh được với thương trường, bạn có thể mất trắng và phá sản. Ngược lại bạn cũng sẽ có tất cả những điều cao quý nhất với những thành công của doanh nghiệp.

Ở lĩnh vực đào tạo, Hiệu trưởng như một tấm gương mẫu mực, phải có các định chuẩn về trình độ qua học vị, qua kiến thức thực tế và qua phong cách lãnh đạo, nhất là trường đào tạo doanh nhân, phải thật sự có sản phẩm đào tạo mà doanh nhân cần. Vì thế một lần nữa tôi phải nỗ lực, phải phấn đấu ở lứa tuổi không còn trẻ, nhưng già dặn tuổi đời một chút trong lĩnh vực này cũng là điều cần thiết. Tôi vừa là Hiệu trưởng, vừa trực tiếp giảng dạy vừa là luật gia tư vấn pháp lý cho doanh nghiệp. Ba công việc này đã giúp tôi thành công và đưa Trường Cán bộ quản lý doanh nghiệp ngày càng phát triển. Sau 5 năm hoạt động trường đã được tặng Bằng khen của Thủ tướng chính phủ (năm 2004). Niềm vui lớn nhất của tôi là có được đông đảo những người học viên bây giờ đã là doanh nhân thành đạt.

Bảy năm làm việc tại Phòng Thương Mại & Công Nghiệp VN, tôi có nhiều kỷ niệm vui buồn và nhiều tâm tư trăn trở.Tháng 10 năm 1998 tôi chuyển biên chế về Phòng Thương Mại. Tôi được phân công là chủ nhiệm chương trình ứng dụng tin học trong quản lý kiêm giám đốc mạng VCCI net, anh Vũ Anh Dũng là phó ban Hội viên và Đào tạo Phòng Thương Mại kiêm phó giám đốc mạng VCCI net. Khi giao quyết định cho tôi, chủ tịch Phòng Thương Mại, ông Đoàn Duy Thành bắt tay tôi và nói: “chúc cô trở thành Bill Gates Việt Nam”. Sau đó, tôi và anh Dũng, anh Hoàng Anh đã làm việc với tổ chức Trade Hub của Úc để tập huấn cho các doanh nghiệp cách đưa thông tin và hình ảnh sản phẩm lên website. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam giới thiệu thông tin lên website chủ yếu giới thiệu mình là ai còn sản phẩm thì không có thông tin chính xác hoặc không cập nhật kịp thời nên khi có khách hàng hỏi mua thì lại không có hàng hóa như đã đưa tin. Lúc ấy chúng tôi cũng đang làm thủ tục xin giấy phép cung cấp dịch vụ Internet (ISP) và xin thuê bao đường truyền mạnh cho VCCI net.

Thấy tôi phải ra Hà Nội làm việc vất vả về chỗ ở và khó khăn việc đi lại nên khi giám đốc Trung tâm Đào tạo Doanh nghiệp nghỉ hưu, chủ tịch Đoàn Duy Thành khuyên tôi nên nhận nhiệm vụ này. Tôi nhận lời nhưng cũng lo lắng vì đơn vị này đang trong tình trạng khó khăn về tài chính. Lúc ấy thường trực Phòng Thương Mại cũng có các anh Đoàn Ngọc Bông, chị Phạm Chi Lan, anh Đào Duy Chữ, anh Vũ Tiến Lộc, anh Hoàng Văn Dũng, anh Phạm gia Túc, anh Nguyễn Văn Thảo đều bày tỏ sự ủng hộ và động viên tôi về công tác tại Trung tâm.

Sau khi nghiên cứu các chương trình đào tạo của Trung tâm, tôi thấy không ổn vì sản phẩm đào tạo của Trung tâm hoàn toàn lệ thuộc vào các giảng viên thỉnh giảng; các chương trình đào tạo ngắn hạn chủ yếu là cập nhật thông tin. Ví dụ thông tin về “thuế” thì mời cán bộ thuế đến nói chuyện; thông tin về “hải quan” thì mời cán bộ hải quan đến hướng dẫn. Lực lượng giảng viên như thế có thể rất có kinh nghiệm về nghiệp vụ nhưng lại thiếu phương pháp sư phạm để truyền đạt. Vả lại những chương trình đào tạo như thế chỉ giúp doanh nghiệp cập nhật mang tính kỹ năng nghiệp vụ, chứ không thể giúp doanh nghiệp nâng cao những kiến thức chuyên sâu về quản lý.

Tôi nhớ lại các chương trình “Cao học quản trị kinh doanh” mà tôi đã học trước đây, giáo trình rất phong phú, rất cần cho giám đốc doanh nghiệp trong công tác quản lý từ việc đưa ra chiến lược sản phẩm, chiến lược đầu tư, tổ chức sản xuất vận hành, quản lý tài chính công ty, các định chế tài chính tín dụng và thanh toán quốc tế, luật kinh doanh quốc tế, quản trị và phát triển nguồn nhân lực, phong cách lãnh đạo, quản trị tiếp thị.... Thế là tôi cho soạn thảo lại các giáo trình này sao cho phù hợp với các điều kiện quản lý của doanh nghiệp Việt Nam, mời các giảng viên có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ về quản trị kinh doanh, có kinh nghiệm giảng dạy, hình thành đội ngũ giảng viên chuyên nghiệp của trường và nghiên cứu đưa ra chương trình sản phẩm đào tạo riêng của trường để đào tạo quản lý cho đối tượng là nhà quản lý, giám đốc doanh nghiệp.

Song song với việc nghiên cứu đưa ra sản phẩm đào tạo phù hợp. Tôi suy nghĩ về mô hình và quy chế hoạt động của nhà trường. Tôi mời các nhà khoa học làm cố vấn cho trường và đề nghị chuyển Trung tâm đào tạo thành Trường Cán bộ Quản lý Doanh nghiệp nằm trong hệ thống các trường đào tạo cán bộ do Bộ Nội vụ quản lý và được Cục Đào tạo của Bộ Nội vụ ủng hộ. Việc định hình này có sự cố vấn tích cực của Hội đồng Khoa học nhà trường, nhất là các anh Tiến sĩ Nguyễn Duy Hùng vụ trưởng vụ quy hoạch cán bộ Ban tổ chức Trung ương; PGS, TS Nguyễn Trọng Điều thứ trưởng Bộ Nội vụ; TS Trần Quang Minh cục trưởng cục đào tạo Bộ Nội vụ. Trong thời gian này Trường Cán bộ Quản lý Doanh nghiệp cũng được phân kế hoạch đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ quản lý các khu công nghiệp. Trưởng Ban quản lý các khu công nghiệp VN lúc ấy là Bộ trưởng Lê Xuân Trinh cũng rất ủng hộ các chương trình đào tạo của trường.

Học viên ngày càng đông vì họ thấy chương trình đào tạo của trường thật sự có bổ ích. Từ đó trường có uy tín và đă thắng lợi trong việc đấu thầu các dự án quốc tế như Quỹ hỗ trợ kỹ thuật ASIA-Invest, SPF VN-EU của Ủy ban châu Âu đào tạo quản trị chất lượng, tiếng Anh thương mại, Master of E. Management; quỹ đào tạo quản lý của Ủy ban hợp tác kinh tế châu Á, Thái bình Dương UNESCAP.

Tiếp đến là sự thành công trong các chương trình liên doanh hợp tác với Kent Australia. ABE của Anh quốc, ITC của WTO và UNTAC, chương trình hỗ trợ chuyên gia CIM của CHLB Đức đào tạo các chương trình quản trị kinh doanh. Đặc biệt là các chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ quản trị kinh doanh MBA, DBA liên kết với Đại học Bách khoa Hà Nội và Trường Đại học chuyên ngành Nam California. Thành công của chương trình đào tạo Cao học Quản trị kinh doanh là do sự ủng hộ của Bộ Giáo dục Đào tạo và Đại học Bách khoa Hà Nội, và sự giảng dạy nhiệt tình của các giảng viên Đại học SCUPS và các giảng viên của Trường Cán bộ Quản lý Doanh Nghiệp.

Từ một cán bộ quản lý doanh nghiệp bước sang quản lý giáo dục, thật sự không phải dễ dàng nhưng bên cạnh sự cố gắng của tôi còn có sự ủng hộ của các cấp lãnh đạo, của Hội đồng Khoa học Nhà trường và sự đồng tình, đồng kham cộng khổ của cán bộ nhân viên, giáo chức nhà trường như ThS Trương Đình Quý trưởng phòng đào tạo, TS Nguyễn Hoàng Anh trưởng khoa công nghệ thông tin, TS Phan Văn Sâm trưởng khoa kinh tế, ThS Phan Hoàng Quý trưởng khoa ngoại ngữ, anh Nguyễn Thanh Hùng trưởng phòng tổng hợp, anh Lê Thanh Nguyên kế toán trưởng, chị Phạm Thị Vị đại diện văn phòng Hà nội, các anh chị cán bộ giáo vụ, các giảng viên trong nước và nước ngoài mà nhà trường đã vượt qua những khó khăn và xác lập được một địa chỉ đào tạo tin cậy của doanh nghiệp trong lãnh vực đào tạo về năng lực quản lý. Năm 2008, Trường Cán bộ Quản lý doanh nghiệp đã đón nhận Huân chương Lao động Hạng Ba.

Từ hoạt động thực tiễn thông qua các chương trình đào tạo hợp tác quốc tế, và từ kinh nghiệm mà tôi tích lũy được trong suốt 30 năm làm doanh nghiệp, tôi hiểu những kiến thức quản lý mà doanh nghiệp cần. Tôi có mong ước được xây dựng một trường Đại học với mô hình mới, kết hợp giảng dạy giữa lý thuyết, nghiên cứu và ứng dụng thực hành trong các ngành quản lý công nghiệp. Nhất là trong các lĩnh vực mà Việt Nam đang có lợi thế xuất khẩu, chẳng hạn ngành khoa học thực phẩm, ngành công nghiệp Dệt - may mặc - giày dép; ngành công nghệ sinh học ứng dụng trong các ngành nông sản, thủy hải sản; các ngành tự động hóa, ứng dụng tin học trong sản xuất mà tôi đã từng tham quan các nhà máy ở nước ngoài, chẳng hạn ngành nhựa, ngành cơ khí chính xác, các bộ phận được thiết kế rời nhưng chính xác để khi lắp ráp là khớp đúng với nhau như linh kiện đồng hồ, mobile phone, máy tính...Vì thế suốt từ năm 2000 tôi đã nghiên cứu và đề xuất thành lập trường Đại học bán công VCCI và được sự ủng hộ của Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Nội vụ.

Năm 2003 Đại hội Phòng Thương Mại lần thứ tư. Thường trực mới là các đồng chí TS Vũ Tiến Lộc, ThS Hoàng Văn Dũng, TS Đoàn Duy Khương, Đ/C Trần Thị Thủy, Đ/C Phạm Gia Túc, ThS Nguyễn Văn Thảo, Đ/C Nguyễn Hữu Hải, tiếp tục ủng hộ việc thành lập Đại học tư thục VCCI.

Chính phủ cũng có chủ trương xã hội hóa trong lãnh vực giáo dục và y tế vì thế hệ thống giáo dục sẽ chỉ còn công lập và tư thục. Năm 2004, được sự ủng hộ của UBND TP HCM, Sở GD&ĐT TP HCM, đề án thành lập Đại học tư thục VCCI trên cơ sở Trường Cán bộ Quản lý Doanh nghiệp đã được Bộ Giáo dục & Đào tạo xem xét đưa vào kế họach thành lập các trường Đại học năm 2005. Quận Bình Tân cũng đã có văn bản chấp thuận về quy hoạch xây dựng Trường Đại học tư thục VCCI tại Phường Tân Tạo A, quận Bình Tân. Để đạt được những kết quả này phải nói có sự vận động tích cực của Ban vận động thành lập Đại học, đặc biệt là các ông bà: TS Phan Trọng Kính, TS Cao sĩ Kiêm, TS Nguyễn Duy Hùng, PGS TS Nguyễn Trọng Điều, TS Đào duy Chữ, TS Đặng Quốc Tiến, TS Chu Hồng Thanh, ThS Bùi Việt Cường, ông Nguyễn Văn Ích, ông Từ quyết Chiến, ông Nguyễn Văn Kích, Bác sĩ Lê thị Vân.

Các doanh nghiệp tham gia các khóa học tại Trường Cán Bộ Quản lý Doanh Nghiệp hiện nay lên tới cả 1000 người, khi nghe tôi thông báo về đề án xây dựng trường Đại học, các doanh nghiệp rất ủng hộ và nhiều người đăng ký góp vốn. Để thủ tục thành lập Đại học đơn giản, Công ty Cổ phần Đầu tư phát triển giáo dục Đông Nam Á (SEAEDI) đã được thành lập để thu hút vốn của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư xây dựng Trường Đại học VCCI.

Một số anh chị Việt kiều ở Mỹ: Bác sĩ Bích, TS Ngô Anh Cường, TS Nguyễn Ngọc Hải, TS Nguyễn Tiến Đức rất tích cực tham gia bằng các hình thức góp vốn, tham gia giảng dạy, chuyển giao công nghệ. Đặc biệt Tết Bính Tuất, có các anh đang sống ở Đức là bạn cùng học ở Petrus Ký với anh Triệu chồng tôi về thăm quê hương đã đến gặp tôi và vận động anh em CLB Petrus Ký ở Đức về giúp tôi. Anh Huỳnh Văn Ngày và anh Dương Văn Phước nói với tôi rằng: “Đã 37 năm kể từ ngày dự đám cưới Triệu-Sơn, sau đó chúng tôi sang Đức, người thì học ngành hóa dược, người học ngành tự động hóa, High tech, bio-technology, nano-technology..., chúng tôi đã làm việc ở các công ty lớn của Đức và có nhiều kinh nghiệm trong các ngành này. Chúng tôi gọi nhau về giúp chị Sơn và giúp Trường Đại học trong công tác đào tạo và chuyển giao công nghệ. Mỗi người góp một chút có thể bằng tiền hoặc bằng công sức, hoặc bằng chất xám, chắc chắn không khó đâu”.

Sau đó để đảm bảo sử dụng đồng vốn có hiệu quả, Công ty cổ phần Đầu tư phát triển giáo dục Đông Nam Á (SEAEDI) đã quyết định đầu tư vào Trường THCS, THPT Duy Tân.

TS Nguyễn Thị Sơn

Xem thêm Văn Nghệ